Trở thành một điểm sáng thành công về phòng ngừa, ngăn chặn và chiến thắng đại dịch Covid 19, Việt Nam được cả thế giới chú ý, ngành y tế Việt Nam cũng bước lên một nấc thang mới – sánh vai các quốc gia có nền y học phát triển. Điều này đã mở ra cơ hội cho thị trường du lịch y tế tại Việt Nam.
Nhờ tính cạnh tranh trong chi phí, thời gian điều trị cùng lợi thế cảnh đẹp sẵn có giúp du lịch y tế Việt Nam có nhiều khách ngoại quốc quan tâm.
Du lịch y tế
Du lịch y tế (medical tourism) là loại hình du lịch kết hợp mục đích khám chữa bệnh bằng hình thức phẫu thuật và không phẫu thuật (khám và điều trị, thẩm mỹ). Hình thức này khác với du lịch sức khỏe (wellness tourism) thiên về nghỉ dưỡng để chăm sóc thể chất và tinh thần.
Du lịch y tế là một trong sáu xu hướng phát triển của du lịch thế giới, cùng với du lịch có trách nhiệm, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch thông minh và du lịch sáng tạo, theo dự báo của Tổ chức du lịch thế giới (UNWTO).

Du lịch y tế trên thế giới
Không phải là loại hình mới, trên thực tế du lịch y tế đã bùng nổ khoảng 10 năm trở lại đây. Ước tính có đến 14-16 triệu người đã lựa chọn và sử dụng dịch vụ du lịch y tế trong năm 2017 và chi phí trung bình của một lần điều trị khoảng 3.800$ – 6.000$.
Theo thống kê năm 2019 của Global Market Insights, quy mô thị trường du lịch y tế được định giá 19 tỷ USD vào năm 2018 và dự kiến sẽ tăng 6,5% từ năm 2019 đến năm 2025, đạt mức 30 tỷ USD năm 2025.

Bởi nguồn cung cao và lợi nhuận lớn, nhiều quốc gia đã tập trung đầu tư vào thị trường tiềm năng này. Hiện nay, Châu Á và Bắc Mỹ đang nổi lên là khu vực tiềm năng cho du lịch y tế bởi sự cạnh tranh về giá cả. So với Mỹ thì Ấn Độ cung cấp các dịch vụ về du lịch y tế với chi phí thấp hơn 20%, Thái Lan thấp hơn 30%. Trong danh sách 10 quốc gia hàng đầu về du lịch y tế năm 2019 được trang web Medical tourism công bố có đến 06 quốc gia Châu Á, cụ thể 10 quốc gia được bình chọn gồm: Ấn Độ, Brazil, Malaysia, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Mexico, Costa Rica, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore.

Tại Châu Á, du lịch y tế đang trên đà phát triển. Một số nước như Thái Lan, Hàn Quốc, Ấn Độ, Malaysia… đang là điểm đến du lịch y tế của lượng lớn du khách Mỹ và các nước Châu Âu. Trước dịch, Thái Lan đón hơn 3 triệu lượt khách chữa bệnh, tạo doanh thu hơn 700 triệu USD (2019). Trong khi đó, Ấn Độ đã cán mốc 3 tỷ USD doanh thu cho du lịch y tế từ năm 2015.
Khách hàng du lịch y tế tại các quốc gia Châu Á có nhu cầu chủ yếu gồm thẩm mỹ, chăm sóc nha khoa, chỉnh hình… Theo Market Data Forecast, quy mô thị trường du lịch y tế khu vực Châu Á – Thái Bình Dương sẽ đạt giá trị 9,53 tỷ USD vào năm 2022 và 26,20 tỷ USD năm 2027.
Tuy chưa trở thành điểm sáng trên bản đồ du lịch y tế nhưng Việt Nam vẫn là quốc gia du lịch đầy hấp lực với gần 16 triệu lượt khách quốc tế năm 2018 và 18 triệu lượt vào năm 2019. Sau hai năm dịch bệnh, 6 tháng đầu năm nay lượng du khách ngoại quốc đến Việt Nam đạt 602.000 lượt người tăng 582,2% so với cùng kỳ năm 2021.
Du lịch y tế ở Việt Nam
Theo trang The Asean Post, chỉ riêng 2018, đã có 80.000 người nước ngoài đến Việt Nam tìm kiếm dịch vụ và điều trị y tế, mang lại nguồn thu hơn một tỷ USD. Điều này cho thấy dấu hiệu tích cực của loại hình du lịch y tế tại Việt Nam.

Tính cạnh tranh về chi phí là một trong những nguyên nhân giúp Việt Nam được khách du lịch y tế quan tâm. Chỉ riêng lĩnh vực nha khoa, tạp chí International Living (Australia) đã bình chọn Việt Nam là một trong ba quốc gia hàng đầu Đông Nam Á được người dân nước này ưa chuộng, với mức chi phí chỉ bằng một phần ba. Cụ thể, dịch vụ làm cầu cho răng sứ tại Australia có giá khoảng 4.500 đô la Australia trong khi ở Việt Nam mức giá này dao động từ 500-800 đô la Australia.
Bên cạnh đó, thời gian cũng là yếu tố giúp du lịch y tế tại các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam chiếm ưu thế. Trong khi tại Mỹ, Australia hay các quốc gia Châu Âu, để thực hiện việc làm răng sứ phải mất từ 2-3 tháng thì tại Thái Lan hay Việt Nam, dịch vụ này sẽ được hoàn thiện chỉ trong 2 tuần.
Không chỉ cạnh tranh về giá cả, thời gian cũng là một yếu tố khiến cho du lịch y tế tại các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam chiếm ưu thế. Trong khi tại Mỹ, Úc hay các quốc gia Châu Âu, để thực hiện việc làm răng sứ phải mất từ 2-3 tháng thì tại Thái Lan hay Việt Nam, dịch vụ này sẽ được hoàn thiện chỉ trong 2 tuần.

Mặc dù đã được du khách quốc tế nhìn nhận và lựa chọn nhưng với danh sách dài các bệnh viện lớn cùng đội ngũ bác sĩ có tay nghề cao ngang tầm thế giới như: Bạch Mai, Viện E, Răng hàm mặt Trung Ương, Y học cổ truyển Trung ương, Hữu Nghị, Bưu điện, Xanh-pôn tại Hà Nội. Bệnh viện Chợ Rẫy, viện 115, Đại học Y dược, Từ Dũ tại thành phố Hồ Chí Minh, chưa kể đến nhiều bệnh viện tư nhân có trang thiết bị hiện đại và dịch vụ cao cấp như Hồng Ngọc, Thu Cúc, An Sinh, Hoàn Mỹ, Vạn Hạnh, Việt Pháp…thì thực tế phải nhìn nhận rằng thị trường du lịch y tế tại Việt Nam còn quá khiêm tốn so với tiềm năng.
Có rất nhiều rào cản khiến du lịch y tế tại Việt Nam chưa thể phát triển, trong đó phải kể đến như: chưa có chính sách khuyến khích phát triển, chưa có sự phối kết hợp giữa ngành y tế và ngành du lịch. Các bệnh viện cũng chưa có sự chuẩn bị về nguồn nhân lực phục vụ thị trường khách này, bởi không như khách nội địa, để phục vụ khách quốc tế thì bác sĩ, y tá cũng cần thông thạo ngoại ngữ. Khó khăn lớn nhất chính là việc để thu hút khách các bệnh viện cần phải có chứng nhận chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Tất cả các bệnh viện uy tín được khách quốc tế lựa chọn tại khu vực Đông Nam Á đều có chứng nhận của Ủy ban Quốc tế (Joint Commission International – JCI). Được JCI công nhận đồng nghĩa với việc có đủ điều kiện cung cấp dịch vụ vụ du lịch y tế đạt tiêu chuẩn cả về chuyên môn và trang thiết bị. Thái Lan là quốc gia có số bệnh viện được JCI công nhận nhiều nhất tại Đông Nam Á với 67 bệnh viện, Indonesia 31 bệnh viện, ít nhất là Myanmar chỉ có duy nhất 01 bệnh viện được công nhận. Việt Nam có 4 bệnh viện được JCI công nhận, một con số còn quá khiêm tốn so với số lượng các bệnh viện tại Việt Nam hiện nay.
Theo cáo của Bộ Y tế, năm 2018 mặc dù thu về hơn 1 tỷ đô từ bệnh nhân nước ngoài, song Việt Nam lại “chảy máu” hơn 2 tỷ đô với 60.000 lượt người Việt ra nước ngoài khám chữa bệnh. Bên cạnh đó, một thị trường khách tiềm năng không thể không nhắc đến chính là hơn 4 triệu kiều bào Việt Nam ở nước ngoài. Số liệu này đủ để ngành y tế và ngành du lịch cần sớm có sự phối hợp, xây dựng các chương trình hợp tác không chỉ thu hút khách quốc tế mà còn khai thác thị trường lớn khách nội địa và bà con kiều bào.
Trong bối cảnh cả thế giới đang đối mặt với vô vàn khó khăn bởi đại dịch Covid 19, Việt Nam trở thành đã trở thành điểm sáng trong công tác kiểm soát dịch bệnh và chữa bệnh. Có được thành công đó là nhờ sự dẫn dắt đúng hướng của Chính phủ và năng lực của ngành y tế Việt Nam. Đã và đang chiến đấu chống dịch, cũng sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức để phục hồi kinh tế và các hoạt động sản xuất sau dịch, song nếu nhìn vào mặt tích cực thì đây cũng là cơ hội khẳng định vị thế của ngành y tế Việt Nam đối với thế giới, cũng có nghĩa là cơ hội cho du lịch y tế Việt Nam cất cánh có thể thực hiện từ hôm nay nếu có chiến lược và kế hoạch hành động cụ thể.
Đọc thêm những tin tức kinh doanh tại: tinvn.net
Truy cập vào kho phim chất lượng HD có thuyết minh vietsub tại: phimmoi.vip